NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG

.:LÀNH MẠNH THỊ TRƯỜNG, TĂNG CƯỜNG HỘI NHẬP:.

Chủ đề: Nội dung kiểm tra, thể hiện sao cho hợp lý !?
Thuộc chuyên mục: Sử dụng các phần mềm DMS
avatar image
Võ Trí Công

1. Bản chất của Nội dung kiểm tra và cách thức thể hiện:

Nội dung kiểm tra là một nội dung quan trọng tại Quyết định kiểm tra, việc thể hiện nội dung kiểm tra như thế nào cho hợp lý, cụ thể và bảo đảm cho người thực thi Quyết định có thể hoàn thành đúng, chính xác ý tưởng của Người ra Quyết định kiểm tra là rất quan trọng.

Theo Điều 17 Pháp lệnh Quản lý thị trường năm 2016 thì phạm vi kiểm tra của lực lượng Quản lý thị trường là kiểm tra việc chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Do đó, việc kiểm tra của lực lượng Quản lý thị trường là việc kiểm tra, đối chiếu hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực tế của tổ chức, cá nhân với các quy định của pháp luật, từ đó xem xét, kết luận việc chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân đó.

Vì thế trong nội dung kiểm tra, bắt buộc phải có tiền tố “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật”. Hậu tố của nội dung kiểm tra phải là một nhóm quy định hoặc quy định cụ thể nào đó, thường là đề mục của một Điều, chương, Nghị định nào đó. 

Ví dụ 1: 

Muốn kiểm tra việc chấp hành pháp luật về nhãn hàng hóa của tổ chức, cá nhân. Chiếu theo quy định về nhãn hàng hóa, các quy định này được quy định tại Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 về nhãn hàng hóa. Do đó. Chúng ta kết hợp giữa tiền tố “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật” và hậu tố là trích yếu “nhãn hàng hóa” của Nghị định 43/2017/NĐ-CP. Chúng ta sẽ có nội dung kiểm tra “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về nhãn hàng hóa”. Khi đó, người thực thi quyết định kiểm tra, sẽ đối chiếu hoạt động kinh doanh thực tế với các quy định trong Nghị định số 43/2017/NĐ-CP để xem xét và đưa ra kết luận về việc chấp hành các quy định về nhãn hàng hóa.

Ví dụ 2: 

Muốn kiểm tra việc chấp hành pháp luật về niêm yết giá của tổ chức, cá nhân. Chiếu theo quy định về việc niêm yết giá giữa Luật giá và Nghị định số 177/2013/NĐ-CP, ta có thể thấy tại Luật Giá, việc quy định về niêm yết giá còn chưa cụ thể, nhưng tại Nghị định 177/2013/NĐ-CP được quy định cụ thể về thực hiện việc niêm yết giá và đề mục cụ thể tại Mục 2 của Nghị định 177/2013/NĐ-CP có tên là “Niêm yết giá”. Do đó. Chúng ta kết hợp giữa tiền tố “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật” và hậu tố là tiêu đề của “Mục 2” Nghị định 177/2013/NĐ-CP. Khi đó chúng ta sẽ có nội dung là: “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về niêm yết giá”. Khi đó, người thực thi quyết định kiểm tra, sẽ đối chiếu hoạt động kinh doanh thực tế với các quy định trong Mục 2 của Nghị định 177/2013/NĐ-CP để xem xét và đưa ra kết luận về việc chấp hành các quy định về niêm yết giá.

Tuy nhiên. Với các hành vi không có đề mục cụ thể chúng ta cũng cần phải lựa chọn câu từ trong các văn bản pháp luật để thể hiện sao cho hợp lý. Ví dụ: Với hành vi “Kinh doanh hàng hóa nhập lậu”. Chúng ta có thể lực chọn ngôn ngữ thể hiện tại Thông tử Liên tịch số: 64/2015/TTLT-BTC-BCT-BCA-BQP ngày 08/5/2015 quy định chế độ hóa đơn, chứng từ đối với hàng hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường. Tại Thông tư này, sử dụng cụm từ: “Xuất trình hóa đơn, chứng từ để chứng minh tính hợp pháp của hàng hóa nhập khẩu”. Dó đó. Kết hợp giữ tiền tố “ Kiểm tra việc chấp hành pháp luật” và cụm từ trên ta có nội dung kiểm tra: “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tính hợp pháp của hàng hóa nhập khẩu.”. Khi đó, người thực thi quyết định kiểm tra, sẽ đối chiếu các quy định tại Thông tư này để xem xét tính hợp pháp của hàng hóa nhập khẩu đang kính doanh tại cơ sở để xem xét, kết luận đó có phải là hàng hóa nhập lậu (không hợp pháp) hay không.

…..

2. Phân biệt giữa nội dung kiểm tra và động tác kiểm tra. 

Hiện nay , có một số cách thức thể hiện nội dung kiểm tra như sau:

Ví dụ: Kiểm tra hàng hóa và hóa đơn, chứng từ liên quan đến hàng hóa. 

Việc thể hiện nội dung kiểm tra như thế này không cụ thể, và người thực thi việc kiểm tra không xác định được các quy định cần đối chiếu ở đâu và ý tưởng của người ban hành quyết định là muốn xem xét, kết luận việc chấp hành quy định về hành vi gì. Cuối cùng, kết quả của việc này có thể dẫn đến nhiều kết luận khác nhau, có thể là “kinh doanh hàng hóa nhập lậu”, “kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ”… rất tùy tiện. 

Nhưng nếu thể hiện Nội dung kiểm tra là: “Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa” thì người thực thi Quyết định kiểm tra sẽ hiểu là Đối chiếu các quy định cụ thể về nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa để xem xét, kết luận việc chấp hành pháp luật. Còn “Kiểm tra hàng hóa và hóa đơn, chứng từ liên quan đến hàng hóa” là một động tác để phục vụ cho việc xem xét, kết luận đó.

"Kiểm tra hàng hoá và hoá đơn chứng từ" không phải là kiểm tra việc chấp hành pháp luật mà nó là chỉ là cái động tác nhằm mục đích tìm kiếm, phục vụ cho một nội dung kiểm tra nhất định nào đó. Ví dụ: Hai nội dung kiểm tra khác nhau như: "Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tính hợp pháp của hàng hoá nhập khẩu" và nội dung" Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá" đều sử dụng động tác" Kiểm tra hàng hoá và hoá đơn, chứng từ kèm theo".. nhưng quy định dùng để so sánh, đối chiếu để đưa ra kết luật chấp hành pháp luật lại khác nhau.. để đưa đến các kết luận vể việc chấp hành pháp luật khác nhau./.

Kính mong các đồng nghiệp cùng thảo luận cụ thể nội dung trên. 

Điểm hữu ích: 17
|
Chưa có câu trả lời tốt nhất !
Câu trả lời được nhiều điểm nhất (2 điểm)
avatar image
Võ Trí Công (Kon Tum)
   12:17 18/09/2021

@Lã Thị Nhuận Cảm ơn bạn quan tâm trao đổi chủ đề. Thật ra, với cách thể hiện nội dung kiểm tra như mình trao đổi bên trên, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có một cấu trúc cụ thể, nhóm các quy định ở một lượng tương đối hợp lý (trong nhóm quy định không bao quát quá nhiều vấn đề, đồng thời cũng không quá ít) để khi chạm đến "quy định về" vấn đề cụ thể nào đó, ta có thể hình dung được phần lượng các quy định mà chúng ta  cần đối chiếu, so sánh với hoạt động thực tế của đối tượng kiểm tra để đưa ra kết luận.

Vì thế, hiện nay, ở một mức độ tương đối nào đó ta vẫn phải lựa chọn câu từ cho hợp lý. Về hàng cấm, tùy thuộc vào mặt hàng cụ thể, ví dụ như thuốc lá điếu nhập lậu ta có thể ghi theo Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá, vì trong văn bản này có nội dung cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển thuốc lá nhập lậu nên ta có thể ghi "Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá"...

Tương tự với hàng giả, nó tùy thuộc vào nội dung của khái niệm hàng giả. Ví dụ: Khi kiểm nghiệm chất chính dưới 70% thì ta kết luận đó là hàng giả thì nội dung kiểm tra khi ấy sẽ liên quan đến chất lượng. Vậy "Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về chất lượng hàng hoá".. vẫn có thể ra kết quả và xử lý hành vi về hàng giả, tương tự, kiểm tra nhãn hàng hoá cũng có thể dẫn đến kết luận "hàng giả về tên và địa chỉ của thương nhân khác...".. 

Do đó, đây là cách vận dụng, cho nên chúng ta cũng nên lường trước các tỉnh huống hay gặp để tạo sẵn 1 danh sách các nội dung kiểm tra để khi cần, có thể sử dụng ngay mà không phải lăn tăn suy nghĩ...


Trả lời Bạn phải nhập ít nhất 5 ký tự để có thể gửi ảnh và đăng bài viết
Vui lòng đăng nhập để có thể gửi bài trả lời !
Nếu chưa có tài khoản vui lòng đăng ký !